Nó chạy ngược lối đi dạo tới cánh cửa màu xanh mà nó đã vào trong buổi sáng đầu tiên. Đoạn nó chạy tới con đường mòn dẫn thong qua cánh cửa phía bên kia tường, vào vườn quả. Vừa dừng chân và ngước nhìn lên, nó bắt gặp cái cây bên kia tường, nơi con chim ức đỏ vừa ngưng tiếng hót và bắt đầu rỉa lông.
- Khu vườn này đây. Mình chắc thế.
Nó dạo quanh và quan sát gần hơn phía bên này bức tường khu vườn quả, nhưng chỉ phát hiện ra những điều đã thấy bữa trước: đó là không có cánh cửa nào đế vào trong đó. Nó lại chạy qua vườn rau nhà bếp lần nữa, rồi đi dạo ra bên ngoài bức tường dài phủ đầy cây thường xuân. Nó đến phía cuối tường để quan sát, vẫn không thấy cánh cửa nào hết, nó lại đi về phía cuối một bức tường khác, nhìn ngó, nhưng cũng chẳng gặp một cánh cửa nào.
- Thật hết sức kỳ quặc, - nó thầm nhủ. – Ông Ben Weatherstaff đã nói là không có cửa và đúng là không có cửa thật. Nhưng mười năm về trước thì có, bởi vì ông Craven đã chon giấu chìa khóa kia mà.
Điều đó khiến nó suy nghĩ rất lung, đển độ nó bắt đầu thấy hứng thú và thôi không hối tiếc vì đã đến Trang viên Misselthwaite. Hồi ở Ấn Độ, lúc nòa nó cũng thấy nóng nực và uể oải nên chẳng mất quan tâm đến gì khác. Sự thực là làn gió trong lành ngoài đồng hoang đã bắt đầu thổi tung tấm màng bao phủ bộ não non nớt của nó, làm thức tỉnh con bé đôi chút.
Con bé ở ngoài trời gần như cả ngày, nên khi ngồi vào bàn dùng bữa tối thì nó cảm thấy đói ngấu, lơ mơ buồn ngủ và vô cùng dễ chịu. Nó không thấy bực khi Martha tán gẫu, nó còn thích nghe chị nói đằng khác, cuối cùng nó nghĩ cần phải hỏi chị một việc cho ra nhẽ. Sau khi đã ăn uống xong xuôi, lại ngồi trên tấm thảm trải trước lò sưởi, nó mới lên tiếng.
- Tại sao ông Craven lại ghét khu vườn ấy hả chị?