“Rồi gã Atreides tới cùng bà mẹ phù thủy,” Scytale nói.
“Người họ Atreides tới,” Farok tán đồng. “Người chúng tôi đã gọi là Usul trong sietch, cái tên riêng của ông ta mà chỉ chúng tôi sử dụng với nhau. Muad’dib của chúng tôi, Mahdi của chúng tôi! Và khi ông ta kêu gọi Thánh chiến, tôi là một trong những người đã hỏi, “Tại sao tôi lại phải đi đánh nhau
ở đó? Tôi chẳng có thân thích nào ở đó cả.” Nhưng những người khác ra đi - những thanh niên, bạn bè, bằng hữu từ thời thơ ấu. Khi họ trở về, họ nói về phép phù thủy, về quyền lực nơi Đấng cứu thế mang họ Atreides này. Ông ta chống lại kẻ thù của chúng tôi, gia tộc Harkonnen. Liet-Kynes, người đã hứa cho chúng tôi thiên đường trên hành tinh, ủng hộ ông ta. Ai cũng bảo rằng người họ Atreides này đến đây để thay đổi thế giới của chúng tôi, chấn chỉnh càn khôn, rằng ông ta là người khiến hoa vàng nở giữa đêm khuya.”
Farok đưa tay lên, xem lòng bàn tay mình. “Người ta chỉ lên Mặt Trăng Đầu mà nói: ‘Linh hồn ngài ở đó.’ Vì vậy mà ông ta được gọi là Muad’dib. Lúc ấy tôi không hiểu gì cả.”
Ông hạ tay xuống và nhìn con trai qua sân. “Trong đầu tôi rỗng tuếch. Tư tưởng chỉ có ở trong trái tim, trong bụng dạ tôi.”
Nhịp nhạc nền lại gấp gáp hơn.
“Anh biết tại sao tôi lại nhập ngũ tham gia Thánh chiến không?” Đôi mắt già nua trân trối nhìn Scytale. “Tôi nghe nói có một thứ gọi là biển. Thật khó mà tin được có biển khi anh chỉ sống ở đây giữa Xứ Cát này. Chúng tôi không có biển. Những người con của Xứ Cát chưa bao giờ biết đến biển. Chúng tôi có bẫy gió. Chúng tôi thu gom nước cho sự thay đổi lớn lao mà Liet-Kynes đã hứa với chúng tôi... thay đổi lớn mà Muad’dib mang tới chỉ với cái vẫy tay. Tôi đã tưởng tượng tới dòng qanat, nước chảy ngang dọc miền đất theo con kênh. Rồi từ đó, tôi có thể hình dung ra một con sông. Nhưng biển ư?”