tước Andrey, và cả viên quản lý nữa đều mến lão và gọi đùa lão là tổng
trưởng. Suốt hai mươi ba năm trường, lão chẳng hề say rượu và ốm đau một
lần nào; dù sau những đêm thức suốt sáng hay những phen làm việc nặng
nhọc nhất, không bao giờ lão có vẻ gì là mỏi mệt, và tuy không biết chữ, lão
chưa bao giờ lầm lẫn về tiền bạc hay trong việc tính toán sổ bao bột mà lão
thường bán ra từng xe lớn, hay số bó lúa mì mà lão thu hoạch trên mỗi mẫu
đất Bogutsarovo.
Chính lão Dron là người mà Alpatyts vừa từ ấp Lưxye Gorư đến đã gọi ra
ngay hôm đám tang lão công tước; Alpatyts ra lệnh phải sắp sẵn mười hai
con ngựa chớ các xe của công tước tiểu thư và mười tám cỗ xe để chở đồ đạc
từ Bogutsarovo đi. Tuy dân Bogutsarovo chỉ là nông dân tá điền nhưng theo
ý Alpatyts thì lệnh ấy đưa ra cũng không gặp trở ngại gì vì trong làng có tới
hai trăm ba mươi nóc nhà mà cư dân thì đều khá giả cả. Nhưng sau khi nghe
lệnh, trưởng thôn Dron vẫn lặng thinh cúi mặt nhìn xuống đất.
Alpatyts kể cho Dron nghe tên những người nông dân mà lão biết và ra
lệnh trưng dụng xe của họ.
Dron trả lời là ngựa của các nhà ấy đều đang đi chở cả, Alpatyts kể những
tên nông dân khác. Theo Dron thì những người này cũng không có ngựa; kẻ
thì ngựa đã bị trưng dụng, kẻ thì ngựa đã mệt lả không đi được nữa, kẻ thì
ngựa thiếu cỏ ăn đã chết đói. Theo hắn thì không những không thể kiếm
được ngựa cho xe tải mà ngay ngựa cho xe của công tước tiểu thư vẫn không
sao kiếm được.